Mới đây EU đã bước đầu thực hiện điều chỉnh liên quan đến các chính sách biên giới carbon của mình. Bước đầu các quốc gia Châu Âu sẽ áp dụng đối với các mặt hàng nhập khẩu, bao gồm có: nhôm, sắt thép cùng với xi măng. Tiếp đến là phân bón và điện. Không chỉ vậy, liên minh châu u cũng đang có những thảo luận để áp thuế carbon với mặt hàng này để có thể cải thiện lại vấn đề biến đổi môi trường. Điều đáng nói là Việt Nam hiện nay đang góp mặt trong top 5 quốc gia xuất khẩu những hàng hóa này vào đất nước Thụy Điển. Chính vì thế, việc giảm lượng carbon trong sản xuất là vấn đề đau đầu đối với thị trường xuất khẩu ngành công nghiệp này ở nước ta.
Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon mới của EU
Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển cho biết về vấn đề mới. Vào trước đó, ngày 11/3/2021, Nghị viện Châu Âu đã bỏ phiếu thông qua Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Theo đó họ sẽ đánh thuế đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu. Nó áp dụng với các quốc gia không có cơ chế định giá carbon.
Ngày 14/7/2021, Ủy ban Châu Âu đã trình bày đề xuất lập pháp về CBAM. Theo đề xuất, các nhà nhập khẩu sẽ phải báo cáo lượng khí thải có trong hàng hóa nhập khẩu của họ. Trong đó họ không phải trả một khoản điều chỉnh phí nào. Chính sách áp dụng trong giai đoạn chuyển tiếp từ năm 2023 đến hết năm 2025. Điều này sẽ tạo điều kiện và thời gian cho hệ thống cuối cùng. Theo EU, nó được áp dụng vào năm 2026.
Cơ chế được EU đề xuất ngày 14/7 vừa qua. Ban đầu nó sẽ áp dụng đối với nhập khẩu hàng hóa. Trong đó bao gồm: xi măng; sắt và thép; nhôm; phân bón; điện. Đây là những ngành, lĩnh vực có nguy cơ rò rỉ carbon cao. Đồng thời sản phẩm này có lượng khí khải carbon cao. Nó chiếm 94% lượng khí thải công nghiệp của EU.
Áp dụng chính sách biên giới carbon thế nào?
CBAM sẽ áp dụng đối với việc phát thải trực tiếp khí CO2 ra môi trường. Điều này diễn ra trong quá trình sản xuất các sản phẩm trên. Vào cuối giai đoạn chuyển đổi của Cơ chế, tức năm 2025, Ủy ban Châu Âu sẽ đánh giá lại CBAM. EU sẽ xem nó đang hoạt động như thế nào. Họ sẽ xem xét có thể mở rộng phạm vi hoạt động của mình. Chính sách có thể vận dụng với nhiều sản phẩm và dịch vụ hơn. Trong đó bao gồm cả chuỗi giá trị và có thể bao gồm “phát thải gián tiếp”. Ví dụ như khí thải carbon từ việc sử dụng điện để sản xuất hàng hóa.
Ngoài ra, Liên minh châu Âu (EU) đang đề xuất áp thuế phát thải carbon. Nó sẽ áp dụng với hàng hóa của những nước bên ngoài EU. Mục đích chính là để cắt giảm khí thải nhà kính.
Chính sách mới nhằm bảo vệ các ngành công nghiệp của châu Âu. Bởi hiện tại sự cạnh tranh của các đối thủ nước ngoài rất lớn. Họ có thể sản xuất với mức chi phí thấp hơn nhờ không bị đánh thuế carbon.
Theo Hội đồng Thương mại Thụy Điển, một số quốc gia nhất định có thể bị ảnh hưởng bởi Cơ chế này. Bởi thông qua số liệu nhập khẩu của EU và của Thụy Điển, việc nhập khẩu các sản phẩm có khả năng chịu sự điều chỉnh của Cơ chế đang diễn ra mạnh mẽ. Điều đáng nói là nó tập trung ở một vài quốc gia.
Việt Nam và thị trường xuất khẩu Thụy Điển trước chính sách mới
Việt Nam không nằm trong danh sách top 5 quốc gia xuất khẩu nhiều nhất các mặt hàng trong một số lĩnh vực bị xem xét của EU. Song theo Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển, Việt Nam lại nằm trong top 5 quốc gia xuất khẩu nhiều nhất các sản phẩm trong ngành công nghiệp sản xuất vào Thụy Điển.
Bên cạnh Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU, Thụy Điển là quốc gia đi đầu về bảo vệ môi trường. Họ chú trọng phát triển bền vững. Quốc gia này sẽ đưa ra các quy định và mức thuế riêng. Nó áp dụng lên một số sản phẩm nhất định. Mục đích là để bảo vệ môi trường.
Do vậy, để có ứng phó tốt với quy định mới này của EU trong tương lai, Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển cho rằng, các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất trong các ngành có nguy cơ cao như thép, nhôm, lọc dầu, xi măng, giấy, thủy tinh, phân bón, năng lượng… xuất khẩu sang thị trường EU nói chung và Thụy Điển nói riêng nên có phương án giảm thiểu lượng carbon trong quá trình sản xuất để không vượt quá ngưỡng tiêu chuẩn của EU.
Hiệp hội Xi măng Việt Nam bày tỏ quan ngại về việc xuất khẩu xi măng sang các thị trường Mỹ, EU… sẽ trở nên khó khăn hơn do bị áp thuế phát thải carbon. Nhiều nhà máy sản xuất xi măng trong nước hiện vẫn chưa lắp đặt hệ thống thu hồi nhiệt thải, từ đó tận dụng nhiệt dư dù Quy hoạch phát triển ngành giai đoạn trước đó đều có quy định về lộ trình triển khai lắp đặt hệ thống thu hồi nhiệt thải.